Việt Trì là kinh đô của Nhà nước Văn Lang thuở xưa. Theo thống kê của sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Phú Thọ ngày nay còn lại được 58 di tích lịch sử, trong đó chùa hoa Long là tiêu biểu mang dấu ấn của Nhà nước khai nguyên do hùng Hiền Vương tạo dựng.
Trong sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây mục chùa Quán chép: “Chùa Hoa Long ở bến sông thông Việt Trì huyện Bạch Hạc. Không rõ dựng từ đời nào, bên cạnh chùa có một phiến đá nằm ở bến sông, trên mặt đá có dấu tích của người to lớn”.
Tương truyền Lạc Long Quân sinh được 100 người con trai đều tài giỏi nhưng không phân định được thứ vị ai là anh, ai là em, bèn lập đàn cầu trời cùng với vạn thần linh họp lại để giúp Lạc Long Quân đặt đủ tên. Lễ cầu đảo vừa xong đã thấy một ông già đầu đội mũ gấm, mình mặc áo bào muôn sắc, chân đi hài tơ, tay chống gậy trúc. Trước hết ông già đến bờ sông ngồi lên hòn đá trên mặt nước. Lạc Long Quân dùng lễ lớn đón tiếp, Tiên ông mới rửa chân ngồi lên hòn đá đề đủ 100 tên theo thứ vị. Một trăm người con trai ấy khi đã nhận ra là anh em, tất thảy đều rất vui mừng. cong việc, tự nhiên có một đám mây xanh bay tới, Tiên ông bước lên mây ấy mà bay đi. Chỗ Tiên ông dừng chân ở Hòn – gành – tức hòn đã thuộc thôn Việt Trì, nhân dân xây dựng ngôi chùa gọi là “Hoa Long Thiền Tự”. Chỗ vua Hùng dừng chân ở Bến Gót nhân dân dựng đền thờ gọi là Thánh Thuỷ (còn có tên miếu Hà Thần)
Hoa Long Thiền Tự được “Cương Mục” chép năm 1740 với dự kiến trùng tu lớn của Nhà nước. Như vậy chùa này được xây dựng từ rất sớm, còn miếu Hà Thần theo Sơn Tây chí, tờ 59a và Sơn Tây tỉnh, tờ 34b được xây dựng năm Minh Mệnh thứ 9 (1828). Trong sách Đại Nam nhất thống chí mục Cổ tích có viết: “ở sau chùa Hoa Long thôn Việt Trì, huyện Bạch Hạc có một gò đất. Tương truyền đây là một nền thạch cũ”. Đại Thanh nhất thông chí chép rằng: “Cung Lạc Vương (chữ Lạc trong sách Thuyết Phu chép là Hùng) ở địa phận châu Tam Đái”. Sách sử ký chép: “Hùng vương đóng đô ở Phong Châu” và cho rằng: Nay là huyện Bạch Hạc. Cứ như thể chỗ này ngờ là nền cung điện cũ của Hùng Vương mà tục truyền lầm là thành của Kinh Dương Vương (trang 212 và 213).
Các sách địa chí cổ đều thừa nhận gò đất “thổ phụ” sau chùa Hoa Long là dấu tích cũ cung điện của thời Hùng Vương.
Như vậy rõ ràng Việt Trì thôn với “Thổ phụ hậu Hoa Long Tuje” là nơi ở và làm việc của Hùng Vương, là điểm khởi đầu của Nhà nước Văn Lang xưa.
Liền kề Hoa Long thiền Tự là đình Việt Trì thờ Thánh Tổ Hùng Vương, ở giữa là đền thờ Hoa – Dung công chúa. Năm 1944 còn giữ được 6 đaok sắc phong của vương triều Nguyễn, nay vẫn còn dấu nền móng bằng đá ong.
Sau Hoa Long Thiền Tự có một cái ao khá rộng, mặc dầu nay đã san lấp nhiều, ao mang tên Hàm Long (ao Hàm Rồng) cùng với Bến Gót, nơi có Hà Thần miếu ở khu đất có tên Long Thổ Châu (Bãi đất rồng). Xem như thể thấy rõ Việt Trì thôn đã thực sự trở thành quần thể di tích lịch sử gắn liền thời điểm Hùng Vương dựng nước mà Hoa Long Thiên Tự là tiêu biểu.
Bến sông nơi có chùa Hoa Long nay thuộc khu vực từ cầu Dầu lên “cây đo nước”. Hòn đá ấy ở vị trí bên Trên hầm cá Anh Vũ mà Lê Quý Đôn đã viết trong Vân Đài loại ngữ: Thiên phẩm vật. Theo sưu thầy Đàm Trầm, trụ trì Hoa Long Tự hiện nay, nói rằng: hòn đá ấy vẫn còn, phù sa đã phủ lên lớp đất dầy. Nơi đây theo thủ tịch Việt Nam chính là “Điểm hội nhân” đầu tiên của quốc gia Văn Lang trong lịch sử cổ đại Việt Nam. Nơi các vua Hùng đã có công dựng nước. Đó là lịch sử có Nhà nước khai nguyên từ Việt Trì mà hiện nay chúng ta vẫn thừa nhận với thời gian 4000 năm, ứng với giai đoạn Văn hoá Phùng Nguyên, nền văn minh luyện kim: đồng, sắt, cây lúa nước và chăn nuôi, nông nghiệp. Ngà nay khoa học, đặc biệt khoa khảo cổ đã chứng minh thời đại Hùng Vương là có thực trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà Việt Trì là kinh đô. Điểm khởi nguyên ấy được thị thực ở bờ sông thôn Việt Trì, đối diện Bạch Hạc bên bờ sông Lô. Nơi ấy về sau dựng lên chùa Hoa Long. Vì vậy Hoa Long Thiền Tự trong tiềm thức của người dân Việt Trì gốc, xác định là nơi có vết chân đầu tiên Lạc Long Quân đến đất này rồi đến Hùng Vương định đô nên Hoa Long Thiền Tự là một dấu ấn của lịch sử dân tộc Việt Nam thời dựng nước.
Năm 1886 thực dân Pháp đặt chân lên đất Việt Trì, chúng dồn dân thôn Việt Trì với vị thế địa thời Hùng Vương dựng nước vào thôn Bạc Nội, Bạc Ngoại nay là phố Hoà Bình và phố Kiến Thiết xây nhà cho viên quan năm phụ trách đặc khu Việt Trì. Khu đất “Thờ phụ hậu Hoa Long Tự” xây trại lính, đặt sở Cẩm.
Chùa Hoa Long và đình Việt Trì được dời đi và tái xây dựng vawof năm 1886 ở thôn Bạc Nội (phố Hoà Bình). Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1946 -1954, Việt Trì bị tái chiếm, thực dân được xây dựng lại với tỉnh chất tạm thời. Chỉ từ khi sư thầy Đàm Trầm tục danh là Đào Thị Lư về trụ trì, sư thầy thấy rõ ý nghĩa lịch sử của Hoa Long Tự nên cùng các đệ tử đi lạc quyên khắp nơi, tích góp hơn 20 năm, năm 1994 khởi công tái thiết nhưng không phải theo mẫu vốn có của nó và đến năm 1997 Hoa Long Thiên Tự khánh thành. Chùa toạ lạc trên đồi cao đúng vào cái nền cũ của năm 1886 với diện tích 2846 m2, riêng nhà Tam Bảo nơi thờ Phật rộng tới 300 m2.
Trong quá trình xây dựng nhà chùa tiếp tục được thiện tín thập phương giầu long cùng tiên, người thì tiền, người thì bằng hiện vật. Ví như vợ chồng ông Trần Quang Thiện là công nhân đường sắt ở phố Kiến Thiết phường Bến Gót năm 1995 cung tiến 2 tượng Hộ Pháp, lúc ấy trị giá 10 triệu đồng. từ miền Nam thành phố Hồ Chí Minh hoà thượng Thích Thanh Kiểm và phật tử Trần Thị Lê Khanh ở chùa Vĩnh Nghiêm cung tiến 6 pho tượng phật đóng hòm vận chuyển bằng máy bay, trị giá gần 50 triệu đồng.
Ngày nay Hoa Long Thiền Tự xây dựng đã hoàn thiện, ngoài chùa chính còn có nhà Tổ đường, Ni đường, Giảng đường… Bên cạnh chùa xây lầu Hoa – Dung trên nền cũ (đền thờ công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung) xinh xắn, mỹ thuật, tượng công chúa tạc đá cẩm thạch. Chùa Hoa Long xây dựng thật là khang trang bề thế, vững chãi, dáng cổ kính. Đền chùa Hoa Long lên hết các bậc vào cổng Tam quan cảm thấy thoáng đãng, thanh tịnh, thâm nghiêm. Trong chùa có 2 bức hoành phi sơn son thếp vàng và hàng chữ đại tự:
Đại Hùng bảo điện
Từ nhân quảng đại
Đã nêu bật vị thế và tầm cỡ của ngôi chùa.
Hàng chục pho tượng Phật đều toát lên sự linh thiêng ngưỡng mộ. Mỗi pho tượng là một hình dáng, một tâm hồn chứng minh sự ra đời và tồn tại của ngôi chùa này, đó là quả chuông đồng và khánh đồng. Quả chuông đồng cao 1,27 m, đường kính là 0,60 m. Trên chuông đồng có hàng chữ Hán to nổi trên cùng là: “Hoa Long Thiền Tự”. Rõ ràng chùa có tên là “Hoa Long Thiền Tự”. Trong bài minh nêu rõ sự tích của chùa, các sự trụ trì, các cá nhân và địa phương công đức. Trong bài minh có nói đến sa môn Thích Trí Đĩnh tên thể tục là tiểu sĩ Trần Hoàng Các già ngoài 90 tuổi, tạc lấy pho tướng chân dung của mình đặ ngồi trong khảm, sau đó viên tịch. Nhân dân xã Lâu Thượng lập đàn thiêu cho nhà sư, sau này xây cất thành ngôi am gọi là Am Ông Sư và địa danh xứ đồng đó nay vẫn còn gọi là đồng Am Ông sư. Cuối bài minh ghi rõ: “Tam Đái phủ, Bạch Hạc huyện, Bạch Hạc xã, Việt Trì thôn Lê triều Cảnh Hưng vạn vạn niên chi thập bát túc thứ, Đinh Sửu tam nguyệt cốc nhật”. Nghĩa là quả chuông này đúc và hoàn thành triều Lê Cảnh Hưng thứ 18 năm Đinh Sửu (1757) ngày tốt lành tháng 3. Cái khánh đồng rộng 1,24 m, cao 1,02 m được tạo dáng lá đề. Khắc chữ Hán cả 2 mặt. Ghi tên người công đức. Mặt trước cũng khắc 4 chữ lớn: “Hoa Long Thiền Tự”. Mặt sau ở cuối ghi “ Kỷ Mùi niên mạch hạ dương phù hồng Khánh”. Nghĩa là tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799) đúc Khánh lớn. Quả chuông và cái Khánh là 2 cổ vật vô cùng quý báu, là tài sản vô giá của Hoa Long Thiền Tự.
Ngôi chùa này được UBND tỉnh Phú Thọ công nhận và cấp bằng di tích lịch sử văn hoá theo quyết định số 3310/QĐ-CT ngày 28/12/2014.
NNC Lương Nghị