Chuyện xưa kể rằng: “Vua Hùng Vương thứ 18 sinh được hai người con gái đặt tên là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cả 2 càng ngày càng lớn khôn xinh đẹp bao nhiêu thì ngược lại tuổi Vua Cha ngày một già thêm bấy nhiêu. Vua không có con trai,bèn dựng lầu ở gò Tiên Cát kén chồng cho công chúa Ngọc Hoa, tìm người hiền, tài giỏi để nhường ngôi. Sắc đẹp của Ngọc Hoa khiến chim phải hờn, khiến cá phải ghen mỗi khi nằng tắm trên bến sông Tiên, được người đời đồn đại bay đến tận non cao, tới biển khơi sâu thẳm. Sơn Tinh tên thật là Nguyễn Tuấn – Thần núi Tản Viên đến cầu hôn. Cùng lúc ấy có một người từ trong làn nước cửa ngã ba sông Bạch Hạc bước lên tự xưng là Thủy Tinh – Thần của vùng thủy phủ cũng xin được cầu hôn. Nhìn một lượt diện mạo của hai chàng, Vua nói:
– Hai người, một là chúa của miền non xanh, một là thần của vùng nước thẳm, hẳn đều cao cường tài nghệ, vậy thử thi tài xem sao!
Thủy tinh vốn tính nóng nảy ra oai phong vòi hút nước sông, phì ra hai lỗ mũi thành mây đen cuồn cuộn, sấm chớp, mưa gió mù trời, cây cối đổ vỡ tan hoang,mọi người nhớn nhác lo sợ. Sơn Tinh mỉm cười, cầm gậy chỉ đầu tử vào đám mây lập tức mây đen tan biến, sấm sét câm lặng, hết gió bão, bầu trời trở lại như cũ. Chàng chỉ đầu sinh xuống mặt đất, cây cối đổ gẫy đứng thẳng, lành lặn như xưa.
Cuộc thi không phân thắng bại. Vua cùng quần thần bàn bạc và ra lời thách cưới:
Sáng sớm mai, ai mang lễ vật đến trước gồm: Voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao, 100 bánh chưng, 100 bánh dày thì sẽ đón được Ngọc Hoa về làm vợ.
Sơn Tinh giở sách ước ra xin, chỉ một lát sau đã có đủ mọi lễ vật. Chàng cùng người nhà mang đến lầu Tiên Cát. Sớm hôm sau, lễ vật được tập kết tại làng Phù Đức để rước vào núi Hùng tế lễ, dâng lên Vua Cha. Vì đến quá sớm,cổng thành chưa mở nên Sơn Tinh đã lấy lá thổi giả tiếng gà gáy. Lính gác nhầm trời đã sáng mở cổng thành, Sơn Tinh dâng lễ vật đón Ngọc Hoa về làm vợ.
Lễ rước dâu được tổ chức trọng thể theo nghi thức và phong tục của dân tộc. Cô dâu được đón từ nhà ra đình Cả (đình chung của 2 làng Vi – Trẹo) để dân làng làm lễ tạ. Làm lễ tạ xong, cô dâu được đưa lên kiệu rước qua làng Triệu Phú để đưa về núi Tản theo đường sông Hồng. Tới cây hương đầu làng (cây hương được xây bằng đá ong cao ngang mặt người), vì thương cha nhớ mẹ, Ngọc Hoa không đi nữa, dân làng phải làm lễ tế Thành Hoàng làng tại đây. Tế lễ xogn, dân làng làm các trò diễn: Lấy tiếng hú, săn lợn chạy địch, tế sóc, trình voi ngựa, chạy tùng dí và trò bách nghệ khôi hài… để làm vui lòng công chúa. Nhờ vậy mà nàng đã ưng thuận lên kiệu đi tiếp về nhà chồng.
Kiệu được tiếp tục rước tới cầu Tây (cầu Cáp); công chúa xuống mảng xuôi theo dòng nước chảy ra sông Hồng. Dân làng đứng trên bờ lưu luyến tiễn nàng công chúa Ngọc Hoa về với quê chống – nơi núi Tản sông Đà”.
Ngày nay, trong ký ức của người dân làng Vi và làng Trẹo vẫn giữ được câu chuyện ngày xưa: “Tản Viên đón vợ” hay “Rước chúa gái”.
Thời phong kiến tự chủ, dân làng Vi – Trẹo ngoài những nghi lễ cầu tế hàng năm ở các đền trên núi Nghĩa Lĩnh và trong ngôi đình Cả (đình chung của hai làng dựng trên đất làng Vi) họ còn tổ chức lễ hội rước chúa gái và diễn trò theo tích xưa.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, hai thôn Vi Cương xã Chu Hóa và Triệu Phú xã Hy Cương,huyện Lâm Thao hiện nay có tên gọi chung là: Làng He. Thôn Vi Cương gọi tắt là thôn Vi, nay thuộc xã Chu Hóa. Thôn Triệu Phú gọi là thôn Trẹo, nay thuộc xã Hy Cương đều nằm trong vùng gần khu di tích lịch sử Đền Hùng, cách núi Hùng gần 2km về hướng Tây. Tuy 2 thôn ở hai xã khác nhau, song từ bao đời nay nhân dân vẫn đoàn kết chặt chẽ, gắn bó yêu thương nhau như anh em ruột thịt, cùng chung một cánh đồng: Đống mạ và một ngôi đình: Đình Cả.
Trong thời phong kiến, hàng năm nhân dân hai thôn Vi – Trẹo thường mở hội làng để ôn lại những truyền thống quý báu của tổ tiên, đồng thời thắt chặt tình cảm cho các thế hệ con cháu.
Lễ hội làng He (rước chúa gái) được nhân dân giải thích và các nhà nghiên cứu thừa nhận tích truyện đó là sự diễn lại cảnh đưa công chúa Ngọc Hoa về nhà chồng hay còn gọi là tích “Tản Viên đón vợ”
Hàng năm, đến ngày 25 tháng chạp (tháng 12 âm lịch), hai thôn Vi – Trẹo cử các đại diện cùng ông từ lên làm lễ mở cửa đền (đền Hạ và đền Trung – thôn nào có đền thôn ấy thờ cúng). Sau khi làm lễ trên núi xong, đại diện bô lao cả hai thôn về đình Cả bàn nhau ngày mở hội làng. Lễ hội làng He được mọi tầng lớp nhân dân ngưỡng mộ, tôn trọng và sùng bái. Dân làng He mở hội làng thì đồng thời tổ chức rước chúa gái.
Tiêu chuẩn chọn chúa gái được thống nhất như sau:
– Con gái xinh đẹp, duyên dáng, chưa có chồng, tuổi từ 13 đến 18.
– Gia đình phong quang (không có tang cả hai bên nội ngoại), chấp hành tốt các quy ước của làng.
– Con nhà có chức sắc và có điều kiện kinh tế.
– Bố, mẹ còn song toàn; có con trai, an khang tịnh vượng.
– Dòng họ gia giáo, có học vấn.
Tiêu chuẩn tuy đơn giản nhưng được lựa chọn kỹ càng. Ngày 28 tháng chạp cả 2 thôn ra làm lễ tại đình Cả và chọn chúa gái. Nếu cả hai thôn đều chọn được những cô gái đủ tiêu chuẩn mà không bàn bạc thống nhất quyết định được vì hai cô đó tương đương nhau thì phải xin âm – dương, Thánh “ứng” vào cô gái nào thì cô gái đó được làm chúa gái cảu làng năm đó.
Sau khi chọn cử chúa gái xong, cả hai làng tập chung chuẩn bị trang trí nhà chúa gái: Y môn,màn trần. Cử 10 đến 15 “tỳ nữ” ăn mặc gọn ghẽ, chưa chồng, xinh đẹp, nhà không có tang, để phục vụ chúa gái. Từ chiều 30 tháng chạp đến mùng 7 thàng giêng chúa gái không được đi ra ngoài, mọi nhu cầu ăn uống sinh hoạt đều do các tỳ nữ hầu hạ. Gia đình có con là chúa gái phải chịu mọi tục lệ trong làng như: Xếp dọn nhà cửa thành nơi thờ cúng, may sắm quần áo đẹp cho con mặc, sắm đồ mỹ trang, sửa soạn cỗ lễ, cơm rượu tiếp đãi các đàn anh và tất cả người phục dịch.
Từ 28 đến 30 tháng chạp. ở hai đình của 2 làng bắt đầu nhang đăng tế lễ để đón ngày tết đến. Nhà chúa gái được treo đèn kết hoa, lập bàn thờ thần linh,chăng vải đỏ tựa nhà lầu công chúa Ngọc Hoa – tiên Dung ở Đền Giếng.
Đêm 30 cả hai nthoon phải im lặng, không được có tiếng động, không được để cho chó cắn mèo kêu. Khoảng 9 đến 10 giờ đêm, cử một ông trưởng phe và một số trai làng kể cả các em từ 12 tuổi trở lên. Ông trưởng phe cầm một con gà giò (gà trống nặng 2kg) cùng một số thanh niên trai tráng khỏe mạnh đi im lặng trong làng rồi đến cây hương (nơi có truyền thuyết Ngọc Hoa ngồi ăn trầu trên đường về nhà chồng). Ông trưởng phe cầm con gà trống vái vào cây hương 3 vái song cả đoàn cùng hú vang, chiêng trống ầm ĩ, gọi là “lấy tiếng hú” thừa. Từ đó, lưu truyền trong dân gian tục xem khi nào hai lá khế chập và nhau thì đúng nửa đêm – năm cũ chuyển giao sang năm mới.
Sớm mùng 4 tháng giêng tổ chức “Săn lợn – chạy địch”. Từ tối mùng 3, các chàng trai trẻ trong 2 làng (dưới 30 tuổi) đều ngủ ở nhà ông trưởng thôn đăng cai việc làng năm đó. Đến tờ mờ sáng mùng 4 mọi người cứ lẳng lặng chạy ra cánh đồng. Khi gặp nhau từng đôi một xông vào vật nhau như để cho khỏe gân khỏe cốt rồi bắt đầu thi chạy để cướp cờ. Cờ hội của hai làng đã được cắm sẵn. Ai phát hiện được cờ làng mình thì chạy nhanh đến lấy cờ rồi người nọ cướp trên tay người kia chạy về làng. Ai về đích trước sẽ được thưởng và năm đó sẽ gặp may mắn, gặp phúc lớn.
Cướp cờ xong thì săn lợn, hai con lợn đen tuyền to khỏe của 2 làng được đưa vào bãi hội, mọi người lao vào dồn bắt, trong tiếng chiêng trống rộn vang, cho tới khi lợn mệt lử không chạy được nữa nằm thở, họ mới xông vào bắt đem đi mổ, tiết sống và lòng đặt lên bàn lấy mật khẩn tế trước. Lòng lợn luộc chín tới đặt lên ván cùng với lợn sống (để cả con) có mỡ chài phủ làm lễ vật cúng tế. Cúng xong, mang tiết và lòng đổ xuống cánh đồng trước cửa đình. Thịt lợn đem ra làm cỗ hội khao làng với quan niệm dân gian: “Miếng lộc thánh hơn gánh lộc trần”.
Tối mùng 6 tháng giêng ở đình từng thôn tổ chức tế sóc và trình voi,ngựa. Mỗi thôn phải làm một con voi màu đen, 2 con ngựa (1 con màu hồng, 1 con màu trắng) bằng nứa đan, phết giấy. Bên sườn voi, ngựa phải bằng thật, voi có đủ bành, ngựa có đủ yên cương trông như voi, ngựa thật.
Sau khi tế sóc và trình voi ngựa tại đình xong thì tổ chức chạy tùng rí. Tùng rí là mỗi thôn cử ra 3 người gánh 3 gánh lúa (một thôn 3 nam, 3 nữ). Đòn gánh là 1 chiếc gậy sơn son, mỗi bên buộc một bó lúa nhỏ chỉ độ một tay lúa (cả bông), trên bó lúa có buộc một nhúm xôi. Hai thôn có 6 gánh lúa, do 3 thanh niên và 3 thiếu nữ khỏe mạnh, mặc áo rước gánh vào chạy 3 lượt vòng quanh sân đình rồi gánh vào đình múa thờ. Khi múa cứ mỗi tiếng trống “Tùng” thì trai gái lại rướn người lên. Sau múa là chạy. Khi chạy chiêng trống giục liên hồi, nhộn nhịp. Sau khi chạy xong cả 6 người gánh lúa vào đình vái 3 vái, ông chủ tế cầm sẵn cây mía lao thẳng về phía sau, rồi nhân dân xô vào cướp những bông lúa để lấy may. Tục này có ý nghĩa muốn cho lúa tốt được mùa, nhà nhà no đủ, vật thịnh dân khang.
Ngày mùng 7 tháng giêng tổ chức rước cờ, voi, ngựa từ đình của 2 làng về đình Cả. Tới đình, chủ tế của hai làng đứng đón sẵn và vái voi,ngựa 3 vái. Sau khi đưa cờ, voi, ngựa vào đình hai làng cúng tế. Có 2 chủ tế – chiếu trải ngang nhau. Làng Trẹo giữ vaii Đông xướng, làng Vi giữ vai Tây xướng.
Ngày 8 tháng giêng, chúa gái được cả 2 thôn võng sang đình Hậu Lộc, xã Chu Hóa để công chúa thay quần áo, rồi lên 1 cỗ kiệu riêng gọi là kiệu chúa gái. Kiệu được rước từ đình Hậu Lộc về đình Cả để dân làng làm lễ tạ. Kiệu chúa gái có đòn cái, 4 đòn con, 8 người khiêng, giữa là một sập vuông, trên có 1 chiếc ghế bành trông tựa chiếc ngai, xung quanh kiệu kết hoa và chăng vải đỏ, phía trên 2 bên có hai cài tàn to che cho khỏi mưa nắng. Chúa gái ngồi trên kiệu chỉ hở phía trước mặt. Trang phục chúa gái là mặc áo mớ 5 mớ 7, vái dài, đầu chít khăn đỏ, có chân chỉ hạt bột, chân đi dép cong, 8 người rước là 8 cô gái mặc áo nỉ có nẹp xanh đỏ, chân cuốn xà cạp, đầu chít khăn vàng, chân đi giày đỏ. Đi bên kiệu chúa gái có 22 người che tàn cũng là 2 cô gái trẻ, đẹp, trang phục giống như người rước kiệu.
Rước chúa gái có cờ dong, trống mở. Cùng rước với kiệu chúa gái có kiệu văn rước sắc và kiệu bát cống rước lễ vật. Nghi trượng và nghi thức rước trọng thể, có đủ các loại cờ, trống, chiêng, tàn, tán, long, bát biểu, voi ngựa, kiếm, gươm, giáo, mác… Trong đám rước có phường đồng văn, phường bát âm, các bô lão, viên chức, dân làng. Đi ngay sau kiệu chúa gái là chúa trai (đi bộ sau kiệu). Chúa trai là một ông già trung tuổi. Phường Đồng văn, hóa trang làm nhiều trò như: câu cá, múa trình nghề… Khi kiệu chúa gái đến gần đình Cả, cách khoảng 500m thấy có 2 voi, 4 ngựa chờ sẵn đoàn rước kiệu cùng đi.
Khi nhập vào đoàn rước kiệu chúa gái đi thì voi ngựa làng Trẹo đi trước kiệu, voi ngựa làng Vi đi sau kiệu. Tới đình Cả, kiệu lễ vật, kiệu lễ sắc văn để lên trên sân đình, phía cuối bãi là kiệu chúa gái, sau cùng là 2 voi, 4 ngựa.
Số người dự hội xem rước không chỉ là dân làng Vi – Trẹo mà còn có rất nhiều khách thập phương tới. Bởi vậy có câu:
“Vui nhất là hội chùa Thầy
Vui thì vui vậy không tầy hội He”
Lễ tạ ơn chúa gái được dân làng làm xong ở đình Cả. Kiệu chúa gái được rước tiếp qua làng Triệu Phú theo hướng sông Hồng về nơi núi Tản.
Tới cây hương đầu làng (cây hương được xây bằng đá ong ngang tầm người), vì thương cha nhớ mẹ, Ngọc Hoa buồn rầu không đi nữa. Dân làng phải làm nhiều trò diễn để Ngọc Hoa vui mà lên kiệu đi tiếp. Trò diễn đó được nhân dân đặt tên là trò “Bách nghệ khôi hài”
Đội diễn trò “bách nghệ khôi hài” mặc quần áo nhiều màu, đi trước kiệu. Dẫn đầu đoàn trò là người vác cây mía to, trên ngọn buộc một bó lúa gọi là “lúa thờ” tiếp theo là những người hóa trang theo các nghề nghiệp riêng của mình: người đi câu cá vác một cái sào dài, đầu sào buộc lủng lẳng một cái bánh chưng, người đi săn vác một ngọn giáo bằng cả một ngọn tre to vót nhọn. Người làm ruộng vác theo công cụ như cày, bừa, cuốc, cào làm bằng gỗ hoặc bằng tre to quá cỡ bình thường và có cả những người đeo mặt nạ, đầu trâu, đầu bò đi theo…
Hòa theo tiếng trống, tiếng chiêng, đoàn người diễn trò vừa đi vừa lắc lư, nghêu ngao múa hát, diễn lắm trò vui, khiến cho chúa gái vui cười nhiều là năm đó dân làng gặp được nhiều điều tốt lành.
Sau khi xem diễn trò xong, kiệu tiếp tục được rước đi, tới cầu Tây (cầu Cáp),chúa gái được đưa xuống mảng theo dòng chảy. Người lái đò từ từ chèo mảng xuôi ra bên sông Hồng. Dan làng đứng 2 bên bờ tiễn đưa cho tới khi bóng hình chúa gái khuất hẳn sau lũy tre xanh. Đến đây lễ hội “rước chúa gái” kết thúc, ông thân sinh ra người được chọn làm chúa gái chạy tới chụp mảnh vải đỏ bọc kín người con gái rồi vội vã cõng con về nhà. Qua khỏi cổng, ông cõng con gái chui qua chuồng trâu để vào nhà. Việc này ngụ ý để giải vía cho chúa gái: để vía Ngọc Hoa khỏi bắt mất hồn vía của con gái mình. Sau đó dân làng làm lễ hóa voi, ngựa rồi đóng cửa đình, lễ vật: xôi gà, rượu, thịt chỉ tạ lễ mà không tế.
Có thể nói, lễ hội làng He là lễ hội rước chúa gái hay còn gọi là việc diễn lại tích xưa: Tản Viên đón vợ. Thông qua lễ hội rước chúa gái nội dung phong tục hôn nhân thời các Vua Hùng dựng nước được phản ánh một cách khá đầy đủ và rõ nét. Đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng, đó là tục thách cưới, là lễ đón rước dâu và thi tài chọn rể….
Lễ hội làng He đã kết thúc, nhưng âm hưởng tinh thần của nó vẫn còn mãi. Cái âm hưởng ấy đã, đang và mãi mãi phản ánh nét văn hóa tiêu biểu trong đời sống của con người qua các thời đại. Nét văn hóa tiêu biểu ấy sẽ góp phần đưa chúng ta – những con người đương đại tìm lại được bản sắc dân tộc của chính mình.
Phạm Bá Khiêm – Về miền Lễ Hội cội nguồn dân tộc Việt Nam (Quyển 2)